Mô
hình chuyển dịch đất đai của Đà Nẵng sẽ được áp dụng trên phạm vi cả
nước và mô hình của thành phố Hồ Chí Minh bị loại bỏ. Đây là một quyết
đáp khá mạnh mẽ.
Trong 10 năm thi hành
Luật Đất đai 2003 vừa qua, chuyện chuyển dịch đất đai để đầu tư phát
triển vẫn ở vị trí trung tâm. Điều này là hoàn toàn phù hợp quy luật của
quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa trên phạm vi cả nước. Trọng tâm
của Luật Đất đai 2003 cũng là hình thành các cơ chế phù hợp để thực hiện
tốt nhất quá trình chuyển dịch đất đai.
Mong muốn vậy nhưng vì
không có các quy định cụ thể và chi tiết nên Luật cũng không tạo được
cách làm có lý trên thực tế. Mỗi địa phương có cách riêng để thực hiện
quá trình chuyển dịch đất đai.
Các phương thuốc địa phương
Thành phố Đà Nẵng thực
hiện chuyển dịch đất đai chủ yếu theo cơ chế "Nhà nước thu hồi đất theo
quy hoạch", sau đó đưa đất sạch vào đấu giá. Khi thu hồi đất, Đà Nẵng
không thực hiện bồi thường chủ yếu bằng tiền mà sử dụng tiền kết hợp với
nhà ở, đất ở. Tiền xuất trước để bồi thường khi thu hồi đất theo quy
hoạch cũng được thành phố giải quyết tập trung từ ngân sách nhà nước,
không sử dụng vốn tín dụng. Nhân dân Đà Nẵng có tinh thần cách mạng rất
cao nên luôn ủng hộ cơ chế chỉ huy tập trung của lãnh đạo địa phương. Hệ
quả tốt là Đà Nẵng đã thực hiện được quy hoạch lại thành phố rất tốt,
hướng hiện đại mà khiếu kiện của dân về đất đai hầu như không đáng kể.
Mô hình quy hoạch hóa
chỉ huy tập trung trong chuyển dịch đất đai thực hiện ở Đà Nẵng mang lại
hiệu quả cao nhưng cũng có những khu vực đất không được các nhà đầu tư
quan tâm.
Hơn nữa, mô hình này đòi
hỏi sự bảo đảm tính khả thi cao của quy hoạch và tính hấp dẫn của đất
đai. Mô hình này chỉ phù hợp với các đô thị trung tâm cỡ nhỏ. Nhân rộng
mô hình ra cả nước là việc cần xem xét rất thận trọng.
Một xu hướng hoàn toàn
khác với Đà Nẵng là việc áp dụng mô hình chuyển dịch đất đai hướng thị
trường tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 2004, thành phố Hồ Chí
Minh đã yêu cầu thực hiện quy trình thỏa thuận giữa nhà đầu tư với những
người đang sử dụng đất đối với mọi dự án đầu tư có lợi ích của nhà đầu
tư.
Cũng ngay trong năm đầu
thực hiện, thành phố đã đề nghị áp dụng cơ chế Nhà nước thu hồi đất đối
với chỉ phần đất đai còn lại sau khi cơ chế tự thỏa thuận đã thành công
trên 70% tới 80% đất đai của dự án. Khoảng 3 năm sau, Hội đồng nhân dân
thành phố đã thông qua Nghị quyết về bắt buộc trưng cầu dịch vụ định giá
độc lập trước khi các cơ quan nhà nước thẩm định và quyết định.
Cơ chế làm hướng thị
trường như vậy đã làm cho môi trường đầu tư ở đây khá năng động, thu hút
đầu tư mạnh mà lượng khiếu nại của dân về giá đất hầu như không đáng
kể.
Tại các địa phương khác,
kể cả Hà Nội, chưa hình thành một mô hình cụ thể nào đáng thảo luận.
Cách thức chung cũng mờ nhạt như quy định của Luật Đất đai 2003 và chỉ
áp dụng cơ chế Nhà nước thu hồi đất theo dự án. Giá đất được quyết định
cụ thể nhiều khi còn phụ thuộc vào phản ứng của người dân và sự năng
động của nhà đầu tư.
Một số tỉnh cũng đã thử
nghiệm mô hình thu hồi đất theo quy hoạch và gặp phải 2 khó khăn chủ
yếu, một là không tìm được nguồn tài chính đủ để bồi thường khi chưa có
dự án đầu tư và hai là bị rơi vào lãng phí đất đã thu hồi khi quy hoạch
sử dụng đất không khả thi dưới tầm nhìn của nhà đầu tư. Hầu hết các địa
phương này có lượng khiếu kiện của dân về đất đai khá lớn.
Cầu sông Hàn Đà Nẵng. Ảnh: cst.danang.gov.vn
Công việc tổng thể phải làm
Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 6 vừa qua đã kết luận về việc áp dụng rộng rãi cơ chế
Nhà nước thu hồi đất, trong đó Nhà nước thu hồi đất theo dự án được áp
dụng cho các dự án đầu tư vì mục đích lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng, quốc phòng, an ninh, Nhà nước thu hồi đất theo quy hoạch được áp
dụng cho các dự án đầu tư vì mục đích lợi ích kinh tế và không được phép
áp dụng cơ chế nhà đầu tư tự thỏa thuận với các chủ sử dụng đất.
Chủ trương này có nghĩa
là mô hình chuyển dịch đất đai của Đà Nẵng sẽ được áp dụng trên phạm vi
cả nước và mô hình cả thành phố Hồ Chí Minh bị loại bỏ. Đây là một quyết
đáp khá mạnh mẽ.
Để thực hiện được tốt
chủ trương này, cần phải tìm cách phát huy hết được những ưu điểm và
khắc phục hết được những nhược điểm của cơ chế kế hoạch hóa chỉ huy tập
trung. Để thực hiện tốt cơ chế này, cần phải giải quyết các công việc
tổng thể có liên quan.
Thứ nhất, cần phải sửa
đổi lại Điều 23 của Hiến pháp để không tạo xung đột pháp luật giữa Hiến
pháp và Luật Đất đai. Nói cách khác, Điều 23 này không áp dụng cho tài
sản của dân là quyền sử dụng đất và các tài sản khác gắn liền với đất.
Cụ thể, Điều 23 phải sửa là:
"Tài sản hợp pháp của cá
nhân, tổ chức không phải là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất thì không bị quốc hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc
trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức mà không phải
là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo thời giá thị
trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định.
Đối với tài sản hợp pháp
của cá nhân, tổ chức là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
thì Nhà nước sử dụng quyền thu hồi đất để phục vụ cho mục đích lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng, quốc phòng, an ninh có thực hiện bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư theo luật định trên nguyên tắc phù hợp với
thời giá thị trường."
Sửa như vậy có gì đó
không ổn với công pháp quốc tế về quyền tài sản của con người, nhưng
buộc phải làm nếu không muốn xung đột pháp luật tồn tại.
Thứ hai, cơ chế chuyển
dịch đất đai tự nguyện dựa trên thương thảo của nhà đầu tư với những
người đang sử dụng đất không được thực hiện có nghĩa là nhà đầu tư trong
nước không được quyền nhận chuyển nhượng, thuê, nhận góp vốn đối với
quyền sử dụng đất trực tiếp từ hộ gia đình, cá nhân. Việc loại bỏ quyền
của doanh nghiệp đối với đất đai có thể làm cho thị trường bất động sản
thiếu năng động và giảm hiệu quả. Sự tác động hành chính ở mức độ cao
vào thị trường luôn gắn với nguy cơ làm biến dạng các quy luật của thị
trường. Để các tác động hành chính trực tiếp vào thị trường có hiệu quả
thực sự thì quyền lực tác động phải được kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, Chính phủ ta
đang vận động cộng đồng quốc tế công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị
trường đầy đủ. Sự thực, việc chỉ áp dụng cơ chế kế hoạch hóa chỉ huy tập
trung trong chuyển dịch đất đai là một biểu hiện rất rõ của nền kinh tế
thị trường không đầy đủ. Điều này có nghĩa là cuộc vận động này sẽ gặp
khó khăn rất lớn. Như vậy, chỉ có một cách là tìm cách vận động tốt hơn
để các nền kinh tế khác hiểu là áp dụng cơ chế bao cấp như vậy nhưng vẫn
rất thị trường.
Các phương thuốc của Trung ương
Điều mà chúng ta dễ thừa
nhận là cơ chế kế hoạch hóa chỉ huy tập trung luôn gắn với nguy cơ quan
liêu và tham nhũng. Quan liêu làm mất đi trách nhiệm giải trình và yếu
kém trong thực thi pháp luật. Hệ quả tiếp theo của quan liêu và tham
nhũng là nguy cơ làm tăng khiếu kiện của dân. Đảng và Nhà nước ta đã
quyết định không áp dụng cơ chế này trong phát triển kinh tế. Nay chúng
ta áp dụng cơ chế này trong thị trường quyền sử dụng đất thì các công cụ
phòng, chống tham nhũng, giảm khiếu cận của dân phải được đẩy lên ở mức
độ cao nhất. Các công cụ này phải được thể hiện cụ thể, chi tiết trong
Luật Đất đai sửa đổi. Đây chính là phương thuốc hiệu nghiệm được áp dụng
từ Trung ương.
Thứ nhất
là hoàn thiện hệ thống quy hoạch sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất là
công cụ quan trọng của mô hình kế hoạch hóa chỉ huy tập trung nên phải
được đổi mới căn bản theo hướng định vị cụ thể trong không gian, chi
tiết về thời gian, tính khả thi cao, có sự tham gia thực của người sử
dụng đất, trình tự thủ tục thật chặt chẽ, bảo đảm công khai và minh
bạch.
Quy hoạch sử dụng đất
phải chuyển hẳn sang phương pháp luận quy hoạch phân vùng. Bên cạnh hệ
thống phân loại đất, cần quy định về hệ thống phân loại không gian sử
dụng đất, đó là đối tượng của quy hoạch sử dụng đất, cụ thể như: khu đô
thị; khu dân cư nông thôn; vùng sản xuất nông nghiệp tập trung (gồm vùng
chuyên canh lúa, vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp, khu chăn nuôi
tập trung); vùng lâm nghiệp phân theo thể loại rừng; khu kinh tế, khu
công nghệ cao; khu công nghiệp; khu dịch vụ, du lịch, vui chơi, giải
trí; khu di tích lịch sử, văn hóa, danh lam, thắng cảnh; khu vực quốc
phòng, an ninh.
Quy hoạch sử dụng đất là
việc phân vùng các không gian sử dụng đất dựa trên nguyên tắc bảo đảm
phát triển bền vững, nâng cao hiệu quả sử dụng đất cho phát triển kinh
tế song song với bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, phòng
chống thiên tại, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ hai
là đổi mới toàn diện cơ chế bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Nguyên tắc
bồi thường bằng tiền một lần phải được thay bằng nguyên tắc lợi ích của
người mất đất luôn gắn với dự án đầu tư. Giá trị bồi thường về đất phải
được xác định thông qua quy trình định giá đất phù hợp với giá đất trên
thị trường theo quy định của pháp luật về định giá đất. Phương thức bồi
thường được thực hiện một phần bằng tiền và một phần bằng đất đai theo
lựa chọn của người bị thiệt hại về đất; bồi thường bằng đất được ưu tiên
thực hiện bằng đất cùng loại, nếu không có đất cùng loại thì bồi thường
bằng đất khác loại theo nhu cầu người có đất bị thu hồi.
Đối với các dự án xây
dựng hạ tầng công cộng mà có tác động lớn, trên diện rộng đến cộng đồng
dân cư, nhà đầu tư có trách nhiệm thực hiện hỗ trợ địa phương nơi có
đất, cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng do dự án gây ra về việc nâng cấp hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, đầu tư bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn
lực tài nguyên thiên nhiên, tạo việc làm; nguồn hỗ trợ lấy từ lợi nhuận
thu được của dự án và được hạch toán vào chi phí trước thuế.
Đối với các dự án chỉnh
trang và phát triển hạ tầng khu đô thị, khu dân cư nông thôn, cơ chế Nhà
nước thu hồi đất để xây dựng hạ tầng được kết hợp với quy hoạch toàn dự
án; bồi thường cho người bị thu hồi đất được tính bằng thửa đất mới
theo quy hoạch với giá trị tương đương; phương án thực hiện phải đạt
được sự thống nhất ý kiến của cộng đồng.
Thứ ba
là hoàn thiện hệ thống định giá đất. Bên cạnh phần thị trường do Nhà
nước chỉ huy còn có thị trường chuyển nhượng, thuê, góp vốn của hộ gia
đình, cá nhân. Vì vậy, nguyên tắc Nhà nước quy định giá đất hay quyết
định giá đất sát giá thị trường vẫn phải được bảo đảm. Mọi quá trình
định giá đất đai và tài sản gắn liền đều phải sử dụng dịch vụ định giá
bất động sản để đề xuất giá hợp lý, đó là cơ sở để các cơ quan nhà nước
quyết định.
Việc lựa chọn tổ chức
cung cấp dịch vụ định giá phải dựa trên sự đồng thuận giữa các bên có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Bảng giá đất của Nhà nước chỉ được áp
dụng trong các trường hợp không gây nguy cơ tham nhũng và khiếu kiện của
dân. Trong những trường hợp phải định giá đất cụ thể thì phải sử dụng
một hệ thống cơ quan quyết định giá độc lập với các cơ quan có thẩm
quyền quyết định về đất đai.
Thứ tư
là nâng cao hiệu quả điều tiết của các chính sách thuế có liên quan tới
đất đai. Các chính sách thuế phải được nghiên cứu, hình thành đồng thời
với các chính sách đất đai nhằm bảo đảm tính đồng bộ và hiệu quả điều
tiết cao.
Thứ năm
là 3 yếu tố chính gồm công khai - minh bạch, trách nhiệm giải trình, sự
đồng thuận của cộng đồng của hệ thống quản trị tốt phải được đề cập như
một nhóm công cụ xuyên suốt hệ thống pháp luật đất đai. Mọi quyết định,
thông tin, quá trình phải bảo đảm độ công khai - minh bạch cao nhất.
Cán bộ quản lý, người có thẩm quyền quyết định phải có trách nhiệm giải
trình cao trước các cơ quan dân cử, cộng đồng về công việc mình làm. Sự
đồng thuận của cộng đồng được xác lập trên nguyên tắc 2/3 số ý kiến đồng
thuận và được thực hiện đối với mọi quá trình quản lý có nguy cơ phát
sinh khiếu kiện của dân.
Thứ sáu
là đổi mới hệ thống phân cấp thực hiện thẩm quyền quyết định của Nhà
nước đối với đất đai và thực hiện nhiệm vụ quản lý đất đai. Sự thành
công của cơ chế kế hoạch hóa chỉ huy tập trung phụ thuộc rất nhiều vào
hệ thông phân cấp thực hiện quyền của Nhà nước để trả lời câu hỏi Nhà
nước là ai? Từ kinh nghiệm của nhiều nước, trong đó có Trung Quốc, cần
phân cấp hoàn toàn quyền định đoạt của Nhà nước đối với đất đai cho Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh. Phân cấp hoàn toàn nhiệm vụ quản lý đất đai cho
cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh. Cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương
chịu trách nhiệm xây dựng luật pháp, tổ chức thực thi luật pháp và kiểm
tra, thanh tra nghiệp vụ quản lý đối với địa phương.
Thứ bẩy
là đổi mới hoàn toàn công tác giám sát việc thực thi pháp luật bằng
việc thiết kế, vận hành hệ thống giám sát - đánh giá. Hệ thống giám sát -
đánh giá là một kỹ thuật mới, không giống như công tác giám sát hiện
nay do hệ thống cơ quan dân cử, hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội
thực hiện. Hệ thống giám sát - đánh giá là một hệ thống thông tin, được
thiết kế để thu nhận thông tin từ tất cả các nguồn có thể (công tác giám
sát hiện nay chỉ là một nguồn thông tin) phục vụ vụ cho đánh giá một sự
việc hay một quá trình nào đó (trong trường hợp này là việc thực thi
pháp luật đất đai) về hiệu suất, hiệu quả và tác động. Hệ thống này có
thể giao cho Văn phòng Quốc hội hoặc Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý
sao cho phải bảo đảm tính công khai, minh bạch.
Thứ tám
là xác lập chế độ sử dụng đất cho phụ nữ, cho nông dân, cho người
nghèo, cho người thuộc các dân tộc thiểu số trên nguyên tắc bảo đảm tính
ổn định, khuyến khích đầu tư dài hơi. Đất nông nghiệp được giao cho
cộng đồng dân cư dân tộc thiểu số để sử dụng, quản lý và bảo vệ.
Thứ chín
là tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trên nguyên tắc đơn giản, tường
minh, tin cậy nhưng bảo đảm hiệu lực pháp lý cao. Cơ quan cấp giấy
chứng nhận không được ban hành quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp
mà việc thu hồi giấy chứng nhận phải do tòa án hành chính quyết định.
Đất đai là một yếu tố
quan trọng, có liên quan tới miếng ăn hàng ngày ở khu vực nông thôn, nơi
ở của tất cả mọi người và là nguồn lực có thể làm cho đất nước phồn
thịnh cũng như làm cho xã hội bất ổn. Xây dựng pháp luật đất đai là việc
cần phải làm rất thận trọng khi tham nhũng trong quản lý đất đai và
khiếu kiện của dân về đất đai vẫn đang ở mức rất "nóng". Hơn nữa, việc
quyết định áp dụng cơ chế kế hoạch hóa chỉ huy tập trung trong chuyển
dịch đất đai lại càng làm cho nguy cơ tham nhũng và khiếu kiện tăng lên
rất cao. Cuộc chiến với tham nhũng và sự nghiệp giảm khiếu kiện của dân
lại đứng trước những thách thức rất lớn buộc chúng ta phải vượt qua. Câu
trả lời thuộc về thực tiễn triển khai vì thực tiễn luôn là thước đo
chân lý.
GS Đặng Hùng Võ
|